Tứ Niệm Xứ Là Gì? Ý Nghĩa 4 Niệm Xứ Thân, Tâm, Pháp, Thọ

Tứ Niệm Xứ là một thuật ngữ Phật giáo, được hiểu là sự xây dựng, thiết lập chánh niệm tỉnh giác nhằm giúp con người đạt đến sự giác ngộ viên mãn và tâm tỉnh thức. Vậy bạn đã hiểu chi tiết về khái niệm Tứ Niệm Xứ là gì? Ý nghĩa của bốn niệm xứ? Các thông tin sẽ được chia tới bạn đọc qua bài viết dưới đây. 

XIN THƯỜNG NIỆM "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT"

1. Tứ Niệm Xứ là gì?

Tứ Niệm Xứ là gì? Tứ là bốn; Niệm là hằng nhớ nghĩ; Xứ là nơi chốn. Vậy Tứ Niệm Xứ được hiểu là 4 nền tảng cốt lõi của Đạo Đế mà những người học Phật cần phải chú ý coi trọng, để tâm và ghi nhớ, quan sát, đó là: Thân bất tịnh; Tâm vô thường; Pháp vô ngã; Thọ thị khổ.

Hay trong Phật giáo Nguyên Thuỷ cũng có nói, thực hành thiền quán sẽ tập trung vào 4 đối tượng, đó là: Thân (cơ thể); Thọ (cảm giác); Tâm và Pháp (các nguyên tắc hay phạm trù chính trong giáo lý của Đức Phật).

Tứ Niệm Xứ là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn.

Trước khi thực hành Tứ Niệm Xứ, Phật dạy rằng, phải giữ gìn giới luật, có trì giữ giới luật thì thân tâm mới trong sạch, nhẹ nhàng để bước vào hành thiền đạt nhiều kết quả tốt đẹp.

Tứ niệm xứ là gì

Tứ Niệm Xứ là xây dựng chánh niệm nhằm giúp con người đạt đến sự giác ngộ 

2. Ý nghĩa của Tứ Niệm Xứ

Tứ Niệm Xứ được được chánh niệm là con đường duy nhất giúp chúng sanh vượt qua bể khổ và giúp chúng ta thẳng tiến đến sự giác ngộ, giải thoát cao nhất. Cũng là con đường duy nhất bất hoại, bất tử, không thay đổi theo không gian gian, thời gian.

Dưới đây là phân tích ý nghĩa của 4 Tứ Niệm Xứ: Thân Quán Niệm Xứ (Quán niệm về thân); Quán Tâm Vô Thường (Quán niệm về tâm); Quán Pháp Vô Ngã (Quán niệm về pháp); Quán Thọ Thị Khổ (Quán niệm về thọ).

2.1 Quán niệm về thân

Có nghĩa là thực hành thiền định về thân để mang lại sự bình yên, nhẹ nhàng trong cuộc sống. Thực hành quán niệm này sẽ thông qua hơi thở, thông qua cử chỉ và các bộ phận cấu thành:

  • Quán thân thông qua hơi thở

Đây là hình thức quán sổ tức (đếm hơi thở) và còn phải theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra dài ngắn như thế nào. Lúc ấy chính bản thân ra nhận thức và biết rõ được tầm quan trọng hơi thở của mình. Con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một thời gian dài, không thể thiếu hơi thở, nếu không còn hơi thở, sẽ không còn mạng sống.  

Phật dạy rằng, khi hít vào thở ra thì chúng ta phải ý thức và theo dõi được hơi thở ấy. Hơi thở ra dài, ngắn thì phải biết là dài, ngắn thật sáng suốt và tỉnh táo. 

  • Quán thân thông qua các cử chỉ hoạt động

Tức là thông qua các hoạt động, cử chỉ như: đi, đứng, ngồi, nằm,... để kiểm soát các hoạt động của thân thể.

Đức Phật khuyến cáo người Phật tử phải ý thức trong từng hành động, phải nhận thức được rằng, khi đi ta biết mình đang đi và đi đâu; khi đứng biết mình đang đứng và đứng ở đâu; khi ngồi biết mình ngồi và ngồi như như thế nào;... 

Từ đó, thông qua quán thân giúp ta kiểm soát hoạt động của bản thân bằng chánh niệm, đưa ta trở về sống với hiện tại; xa lìa lối sống tìm cầu hạnh phúc bằng tưởng tượng, viển vông,...

Ý nghĩa của Tứ Niệm Xứ

Thông qua quán thân giúp ta kiểm soát hoạt động của bản thân đưa ta trở về với hiện tại

  • Quán thân bất tịnh thông qua các bộ phận sai biệt cấu thành

Theo truyền thống của Phật giáo, thân con người là do tứ đại hợp thành, tức bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa.

Thân này chịu sự chi phối của sanh, già, bệnh, chết. Tuy nhiên, quán thân là bất tịnh, là vô thường, ta không được bi quan về nó, bỏ rơi hay hủy diệt nó. Bởi lẽ, mục đích của quán thân bất tịnh là nhằm đưa con người vượt khỏi những vướng mắc, quỵ lụy đau khổ chấp trước vào thân này. 

Xem thêm: Bát chánh đạo là gì?

2.2 Quán niệm về thọ

  • Thọ là gì?

Thọ là nói tắt của cảm thọ tức là khảo sát tâm lý con người - cơ sở không thể thiếu được trong việc hình thành tâm thức con người 

Thọ bao gồm có thân thọ và tâm thọ. Thân thọ mà tâm không thọ, hoặc thân và tâm đồng cảm thọ. Nói tóm lại thọ sẽ có ba trạng thái:

  1. Lạc thọ là tâm lý hưng khởi sung sướng, thích thú trước đối tượng. 
  2. Khổ thọ là trạng thái tâm lý khổ não, buồn chán... 
  3. Bất khổ bất lạc thọ là tâm lý trung dung, không thiên lệch về phía lạc cũng như về phía khổ.
  • Nội dung của quán niệm về thọ

Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, do duyên tiếp xúc với lạc nên lạc thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với khổ nên khổ thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với bất khổ bất lạc nên bất khổ bất lạc thọ khởi” (theo kinh Trung Bộ III, số 140). 

Và làm thế nào để nhận diện được thọ? Đó là phải có mặt của ý thức. Nếu không có ý thức về nó thì sẽ không có cảm tưởng về lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. 

Thọ càng nhiều chúng ta càng thấy hạnh phúc, tuy nhiên sự khổ hạnh luôn đi cùng sự hạnh phúc. Con người ta luôn lo sợ chết sớm và không được hưởng của cải vật chất đã tạo ra. Hay luôn lo sợ của cải bị đánh cắp và sẽ vô cùng buồn khổ khi điều đó xảy đến. Hoặc khi sa cơ lỡ vận trở nên trắng tay con người lại càng đau khổ cùng cực, thất vọng, chán trường,... Đó là nỗi khổ của những lạc thọ thuộc vật chất. 

Tuy nhiên, cảm thọ đưa đến khổ đau hay an lạc tùy thuộc rất nhiều vào mức độ giác ngộ của chúng ta. Đối với người Phật tử có tu tập, có trí tuệ quán chiếu thì luôn làm chủ được tâm mình trước những cảm thọ. 

Tứ niệm xứ

Đối với người Phật tử có tu tập, có trí tuệ quán chiếu thì luôn làm chủ được tâm mình

2.3 Quán niệm về tâm

  • Tâm là gì?

Thực ra nói đến Tâm, chúng ta rất khó bàn vì ta không thể nói “tâm là... “ như nói đến một sự vật cụ thể. Tuy vậy, ta vẫn nắm bắt và nhận diện được nó. Ta vẫn thường nghe nói đến tâm qua các khái niệm: tâm thiện, tâm ác, tâm ích kỷ, tâm tham, tâm sân... Tất cả đều là những biểu hiện của tâm trong đời sống. 

  • Nội dung của quán niệm về tâm

Quán tâm tức là ta đang dùng tâm để quán tâm, tức là ta đang ý thức về tâm mình để thấy được sự có mặt và hoạt động của nó.

Tâm cũng có cảm giác đau khổ và an tịnh, vì thế mà con người luôn tồn tại một căn bệnh trầm kha khó chữa: tâm bệnh. Tâm bệnh xuất phát từ nguyên nhân chính là do tham, sân, si. Tham về của cải vật chất, địa vị, tình cảm... Tham không được thì sân hận, khổ đau sầu não mà sinh ra bệnh. 

Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, chấp tâm thức là thường còn, còn sai lầm và tệ hại hơn là chấp thân xác là thường còn. Vì thân xác người còn có thể tồn tại vài chục năm cho tới một trăm năm, còn tâm thức của người thì sanh diệt đổi thay trong từng giây phút” (Tạp A Hàm, T.II).

2.4 Quán niệm về pháp

  • Pháp là gì?

Theo giáo lý đạo Phật, chữ Pháp được hiểu là bao hàm cả vũ trụ và nhân sinh, vật chất và tinh thần, tâm lý và vật lý. Pháp được chia làm hai nhóm là sắc pháp và tâm pháp: 

-  Sắc pháp có hình chất gây trở ngại và không có tri giác (như cái bàn, cái cây, ly nước…). 

- Tâm pháp là pháp không có hình tướng, không thể nhìn thấy được, nhưng có tri giác.

  • Nội dung của quán niệm về pháp

Quán niệm pháp hợp đủ sắc pháp và tâm pháp. Sắc pháp được chỉ chung cho thân người và các pháp ngoại giới. Sắc pháp và tâm pháp đều do nhân duyên mà thành nên chúng là hư vọng. 

Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh, nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt”.  Nghĩa là: Các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: Tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là “vô ngã”.

Ví như trong giấc chiêm bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh này cảnh khác và người chiêm bao cũng tưởng đó là sự thật. Đến khi tỉnh giấc, mới nhận ra đó là những viễn cảnh trong giấc mơ. Chúng ta cũng thế, nếu không nhận ra được sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có. Nhưng kỳ thức, các pháp đều là “vô ngã”.

Do không biết đến “pháp vô ngã” nên tâm muốn yên vui mà không lúc nào được an yên, luôn bị lôi cuốn vào vòng xoáy sinh tử,.... Vì vây, pháp quán niệm chính là đưa thân và tâm trở về sống với thực tại vốn có. 

Tóm lại: Đức Phật đã khẳng định việc tu tập bốn niệm xứ này: “Đây là con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn” (Kinh Niệm xứ, Trung Bộ I).

Như vậy qua bài viết của Bchannel đã giúp bạn hiểu phần nào về khái niệm Tứ Niệm Xứ là gì? Ý nghĩa của 4 tứ niệm Thân - Tâm - Pháp - Thọ mà Đức Phật đã dạy. Cảm ơn bạn đã theo dõi, đồng hành cùng Truyền hình An Viên để cập nhật những kiến thức bổ ích nhất.

XIN THƯỜNG NIỆM "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT"