Bát Nhã Tâm Kinh Là Gì? Niệm Khi Nào? Ý Nghĩa Của Bát-nhã

Có lẽ trong chúng ta ai cũng ít nhất một lần nghe qua một bài kinh Phật, có thể là nghe ở một ngôi chùa hay một đám lễ nào đó. Và bài kinh được nghe thấy phổ biến nhất chính là Bát nhã tâm kinh. Hãy cùng tìm hiểu xem Bát Nhã Tâm Kinh là gì và tại sao bài kinh lại được tụng niệm phổ biến như vậy trong bài viết dưới đây.

1. Bát nhã tâm kinh là gì?

Bát nhã tâm kinh còn có tên gọi đầy đủ là Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh (phiên âm Latinh từ tiếng Phạn: Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; tiếng Anh: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Trung Quốc: 般若波羅蜜多心經), hay còn gọi tắt là Tâm Kinh. Đây là bài kinh có khoảng 260 chữ, là bài kinh ngắn nhất, tinh yếu nhất trong bộ 600 cuốn kinh Đại Bát Nhã của Phật Giáo Đại Thừa và Thiền Tông.

Không có tư liệu nào nói chính xác về thời gian, cũng như tác giả của Tâm Kinh. Bộ kinh Đại Bát Nhã được thu thập rất nhiều lần, bộ sưu tập có khoảng 40 kinh điển Phật Giáo từ khoảng năm 100 TCN và năm 500 SCN. Người ta chỉ biết rằng hệ thống kinh Bát-Nhã-Ba-La-Mật được khởi phát từ miền Nam nước Ấn từ trước Công Nguyên. Bài kinh thuộc hệ Phát Triển, viết bằng tiếng Sanskrit, được ngài Trần Huyền Trang (Tam Tạng), một cao tăng thời Đường, Trung Quốc, mang về nước vào thế kỷ thứ 7, sau khi du học Phật Pháp tại Ấn Độ 17 năm và dịch thành Hoa Ngữ, rồi lan truyền khắp các nước Đông Nam Á gần 19 thế kỷ qua. Bản chú giải ở Việt Nam là của thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động (tỉnh Ninh Bình) thời vua Minh Mạng.

bát nhã tâm kinh

Bát nhã tâm kinh viết bằng tiếng Phạn (tiếng Sanskrit)

Bát Nhã Tâm Kinh là bài kinh mà hầu hết các Phật tử ở Việt Nam, Nhật Bản, Tây Tạng, Trung Quốc, Triều Tiên đều biết đến và tụng qua nó khi mới bước vào đạo. Bát Nhã là gì? Bát-nhã (tiếng Phạn: Prajñā, tiếng Nam Phạn: paññā, chữ Hán: 般若) là một khái niệm trung tâm của Phật Giáo Đại thừa, và hàm ý là trí tuệ siêu việt, đồng nghĩa với sự giác ngộ mà một Bồ Tát đạt đến. Bát Nhã là một cách thức để đạt được tới trí tuệ toàn diện của bậc Phật. Tâm Kinh chính là bài kinh nằm lòng của mỗi Phật Tử. Bài kinh này chính là ngọn đuốc dẫn đường cho những người hành giả đi đến đích tu Phật. Bởi đây là bài kinh nói về tâm, nhưng không phải là tâm suy nghĩ bình thường của con người, mà nó là cái tâm trí huệ thâm sâu, sắc bén của mỗi người, soi thấu được nguồn gốc của vạn vật trên thế gian, nhằm phá thói quen, chấp niệm nặng nề của chúng sinh, đưa chúng sinh vượt qua bể khổ, sang bờ giác ngộ. Muốn vượt qua con đường tu hành đầy gian nan, khổ hạnh để đi đến giải thoát và đạt được giác ngộ thì phải tụng niệm Bát Nhã Tâm Kinh.

2. Niệm Bát Nhã Tâm Kinh khi nào?

Giống như các bài kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư, Kinh Địa Tạng, Kinh Sám Hối, Chú Đại Bi,... Bát Nhã Tâm Kinh cũng là bài kinh trì tụng hàng ngày mà Phật tử nào cũng biết. Ở tất cả các bộ kinh đó, trước khi tụng phần sám hối, và hồi hướng công đức, Phật tử đều có tụng kinh Bát Nhã, rồi sau đó mới tụng đến kinh vãng sanh. Bởi rằng, Đức Phật muốn chúng sinh hiểu được con đường tu hành đi đến giải thoát và đạt giác ngộ không phải là một con đường dễ dàng, mà đó là con đường đó đầy rẫy những khó khăn, chướng ngại. Muốn vượt qua những khổ hạnh để sang được bờ giác ngộ, Phật tử cần tụng niệm Bát -Nhã tâm kinh: đi qua, đi qua, qua, tích cực qua bờ bên kia đi, qua bờ bên kia sự giác ngộ sẽ được viên thành (Yết - đế. Yết - đế. Ba la yết - đế.  Ba la tăng yết - đế. Bồ - đề tát - bà - ha).

bát nhã

Để sang bờ giác ngộ, chúng sinh cần tụng niệm Bát Nhã Tâm Kinh

2. Ý nghĩa và công đức của việc tụng Bát Nhã Tâm Kinh

Bát Nhã Tâm Kinh là cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới, trong thế giới quan đó, Phật giáo cho rằng mọi vật chất (sắc) và tinh thần (thọ, tưởng, hành thức: cảm giác, tri giác, ý chí, nhận thức) đều có tính không (Trống rỗng). Tính không cũng là vật chất và tinh thần, và ngược lại, vật chất và tinh thần cũng là không. Mọi vật chất không mất đi cũng không tự sinh ra, nó luôn luôn biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Không có sinh cũng không có diệt (chết). Mỗi dạng của vật chất mà ta nhìn thấy (Sắc) chỉ là hình thướng của vô vàn các vật chất khác tạo thành mà ta không nhìn thấy (Không), nên nói “sắc” cũng là không. Mặt khác, vô vàn vật chất mà ta không nhìn thấy, không hiện hình dưới dạng một hình tướng vật chất (sắc), nên vô vàn vật chất đó không nhưng lại là “sắc”.

Trong Phật Giáo, từ bi chính là cái gốc của ngọn nguồn chúng sinh. Từ bi chính là ánh mặt trời của trí tuệ, của Tính không. Nó là chất liệu để mỗi người khởi sinh tình yêu vô điều kiện, hỗ trợ và giúp đỡ chúng sinh đến vô cùng vô tận, mà không suy nghĩ đến được mất, hơn thua. Nếu tất cả chúng sinh đều có được đức tính trống rỗng của họ, chính là họ đã được giải phóng và thuần khiết, đạt được cảnh giới giác ngộ của Bát Nhã. Bát Nhã Tâm Kinh truyền đạt bản chất của trái tim, là sự hoàn hảo của trí tuệ, hay cái nhìn soi thấu vạn vật thế gian. Bài kinh như một bản ghi nhớ ngắn gọn để suy ngẫm tất cả các yếu tố trong cuộc sống tâm linh của mỗi người, xuất phát từ những gì chúng ta đang có bây giờ, điều chúng ta muốn trở thành khi chúng ta đi vào con đường giác ngộ, và những điều chúng ta đạt được hoặc không đạt được khi kết thúc con đường đó.

bát nhã tâm kinh là gì

Lòng từ bi là ánh sáng của trí tuệ, của tính không

Việc tụng niệm hay nghe Bát Nhã Tâm Kinh giúp chúng sinh mở mang trí tuệ. Bởi Kinh Phật là một kho tàng kiến thức đồ sộ với các điển tích, những thông tin đúng đắn gắn liền với các thời kỳ lịch sử. Qua các bài kinh, mọi người có thể tiếp cận được rất nhiều thông tin hữu ích trong cuộc sống, thế giới quan của kiếp trước, kiếp sau và cõi nhân sinh. Bên cạnh đó, Kinh Bát Nhã cũng giúp mọi người định tâm. Đọc tụng bài kinh này sẽ giúp mọi người giữ được tâm hồn bình an, vượt qua được mọi khó khăn trở ngại trong cuộc sống. Hơn thế nữa, khi tụng kinh Bát Nhã thường xuyên, Phật tử cũng có được công đức, sự may mắn, bình an để cuộc sống ở kiếp này hay kiếp sau đều trở nên tốt đẹp.

3. Bản Bát-nhã Tụng Hán - Việt và dịch nghĩa

Bát Nhã Tâm kinh bản Hán - Việt

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành thức.

Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc, thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.  Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.

Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.

Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.

Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, bala yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

bát nhã nghĩa là gì

Dịch - Bát nhã tâm kinh 

Bản dịch nghĩa Bát Nhã Tâm Kinh

Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.

Này Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhớ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.

Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. 

Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. 

Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.

Không có khổ, tập, diệt, đạo. 

Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. 

Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã này thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.

Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã này mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.

Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.

Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú: 

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

(Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)

Sự giác ngộ về tính không của vạn vật trên thế giới là đỉnh cao đạt được trong Pháp tu Bát Nhã Tâm Kinh. Hy vọng qua bài viết này, các bạn có thể lượm nhặt được phần nào những thông tin hữu ích, để hiểu rõ hơn về bài Kinh, góp phần nâng cao hiệu quả cho việc tu Phật.